Tình hình ô tô

Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp ô tô Việt Nam hiện nay

Vào thời điểm này, hoạt động sản xuất lắp ráp của các liên doanh ô tô ở Việt Nam chưa cho thấy hết tính hiện đại trong sản xuất ô tô. Một nhà máy sản xuất ô tô chuẩn phải có ít nhất 4 quy trình cơ bản là dập, hàn, sơn và lắp ráp; trong khi đó các liên doanh ô tô ở Việt Nam (trừ Toyota mới đầu tư vào công đoạn dập) mới chỉ thực hiện được 3 quy trình cuối là hàn, sơn và lắp ráp. Cả 3 công đoạn này đều không đòi hỏi cao về kỹ thuật và công nghệ, không phát huy tính sáng tạo và khó có thể nâng cao được tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm.

Ô tô nước ta được cung cấp từ hai nguồn chính là nhập khẩu và do các doanh nghiệp lắp ráp, chế tạo ô tô trong nước cung cấp bao gồm 11 liên doanh và sáu doanh nghiệp Nhà nước tuy nhiên số lượng xe lắp ráp của các doanh nghiệp Nhà nước là không đáng kể.

Mặc dù cùng với sự lớn mạnh của các liên doanh với số lượng xe bán ra không ngừng gia tăng nhanh chóng nhưng số lượng xe nhập khẩu cũng tiếp tục tăng.

Thời kỳ trước khi nước ta gia nhập WTO, số lượng xe tiêu thụ của nước ta chủ yếu vẫn là xe nhập khẩu với tỷ trọng lớn dù rằng nhà nước đã có những chính sách nhập khẩu. Tuy nhiên theo tổng cục thống kê cho biết thì so với mức tăng trưởng của xe nhập khẩu thì sản  lượng xe bán ra của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn thấp.

Sản lượng và số lượng tiêu thụ xe của các doanh nghiệp trong nước tăng lên đáng kể, sự phát triển của nhiều doanh nghiệp so với tương quan chung của cả hiệp hội thì tỷ trọng của các doanh nghiệp này cũng tăng lên.Có thể kể ra như Mekong có sản lượng tăng 266 chiếc, tỷ trọng tăng 0,33%; lượng tiêu thụ tăng 380 chiếc, tăng tỷ trọng hơn 0,11%. Tương tự như vậy có các doanh nghiệp như Toyota, Isuzu, Hino, Mercedes.Tuy nhiên cũng có một số doanh nghiệp giảm sút về cả sản lượng lẫn số lượng tiêu thụ và cả tỷ trọng chung so với toàn hiệp hội. Như doanh nghiệp Vidamco ( doanh nghiệp này giải thể vào năm 2007) có sản lượng giảm 1759 chiếc,tỷ trọng giảm 11,35%; lượng tiêu thụ giảm 686 chiếc,tỷ trọng giảm 10,41%. Các doanh nghiệp khác như VMC, Suzuki. Các doanh nghiệp  còn lại của năm 2005 nhìn chung không thay đổi nhiều so với tương quan chung của cả hiệp hội và của riêng từng doanh nghiệp. Đặc biệt, năm 2006 có sự gia nhập của 5 doanh nghiệp vào hiệp hội VAMA, có sản lượng và lượng tiêu thụ khá cao, cao nhất là Trường Hải  với sản lượng là 5713 chiếc và lượng tiêu thụ là 5354  chiếc, tỷ trọng so với toàn ngành là 16,03% và 13,01%. Các doanh nghiệp khác có chất lượng xe rất tốt.

 

Kết quả hoạt động kinh doanh của nhóm sản phẩm

Kết quả hoạt động kinh doanh của nhóm sản phẩm ô tô tải nhẹ  ở Nhà máy trong những năm gần đõy

Nhà máy cơ khí công trình là một trong những đợn vị đạt được nhiều thành tích trong kinh doanh trong  tất cả các loại sản phẩm của doanh nghiệp đặc biệt là thành công trong việc sản xuất và lắp ráp ô tô tải. Có được kết quả như vậy là do những kết quả và hiệu quả tích cực trong những năm sản  xuất kinh doanh vừa qua.

Kết quả sản xuất kinh doanh của nhóm sản phẩm ô tô tải nhẹ  trong 4 năm qua, giá trị sản lượng của ô tô tải năm sau cao hơn năm trước, trừ có trong năm 2006  thì giá trị sản xuất  bị giảm  so với năm 2005. Cụ thể năm 2003 chỉ đạt có 10900 triệu đồng, nhưng  sang đến năm 2004 thì giá trị này tăng lên gấp gần 3 lần so với năm 2003, tăng lên 27624,7 triệu đồng. Đến năm 2005 giá trị sản lượng của nhóm sản phẩm này tăng, nhưng tốc độ tăng không cao như năm 2004, trong năm 2005 tăng lên 34474 triệu đồng, tăng gấp 1,5 lần so với năm 2004. Chỉ sang đến năm 2006 thì do có sự biến động trên thị trường ô tô nên giá trị công nghiệp của ô tô tải đã giảm so với năm 2005 chỉ còn 32045 triệu đồng, nhưng mức độ này giảm cũng không đáng kể so với tình hình thị trường ô tô lúc đó.

Cùng với sự gia tăng về giá trị sản lượng năm thì giá trị của doanh thu thuần hàng năm  của nhóm sản phẩm ô tô tải cũng được tăng lên tương đương. Cụ thể trong năm 2003 doanh thu thuần  của nhóm sản phẩm ô tô tải nhẹ là 7155 triệu đồng, sang năm 2004 thì con số này đã được tăng lên gấp đôi là 15704.1 triệu đồng. Năm 2005 thi cũng tăng nhưng ít hơn so với trước đó là: 19734. Do trong năm 2006 đã có sự thay đổi kế hoạch sản xuất khi  Ban quản lý nhà máy có thể dự  đoán trước được tình hình thị trường. Trong năm này thì không chỉ riêng Nhà máy có doanh thu giảm mà có nhiều doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực này cung giảm doanh thu, trong năm 2006 thì doanh thu của  nhà máy chỉ đạt được là 18798.7 triệu đồng. Thông qua những số liệu trên cho chúng ta thấy tình hình kinh doanh cảu doanh nghiệp đã được cải thiện qua từng năm và cũng có kế hoạch cụ thể cho từng năm.

Mặt khác thông qua bảng số liệu trên cho ta thấy được các chi phí của doanh nghiệp tương đối là thấp so vơi các doanh nghiệp khác sản xuất  lắp ráp. Cụ thể  chi phí bán hàng  khá ổn định trong 4 năm vừa qua dao động  trong khoảng 800 triệu đến 1000 triệu đồng. Chi phí bán hàng của doanh nghiệp tăng qua mỗi năm điều này chứng tỏ Nhà máy đã có đầu tư trong giai doạn bán hàng để tăng khả năng tiêu thụ nhiều nhất. Còn giá vốn hàng bán qua các năm cũng tăng theo lượng bán hàng của sản phẩm. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất quyệt định đến giá bán sản phẩm và lợi nhuận của doanh nghiệp.  Hiện tại Nhà máy đang có những biện pháp để tiết kiệm chi phí làm cho giá thành giảm tới mức độ thấp nhất nhằm thu lợi nhuận cao và có thể canh tranh bằng giá trên thị trường.

Chúng ta thấy chỉ tiêu lợi nhuận  cảu ô tô tải  năm  sau đều cao hơn rất nhiều so với năm 2003. Trong năm 2004 lợi nhuận cao gấp 3.5 lần so với năm  2003,sang năm 2005 và 2006 con số này tăng lên gấp 5 lần.

Ta nhận thấy rằng lợi nhuận của nhóm sản phẩm khá là cao trong Nhà máy nó chiếm  gần 2/3 lợi nhuận của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này thể hiện sự làm ăn kinh doanh và sử dụng vốn đầu tư của nhà nước có hiệu quả.Đây có thể là một tín hiệu đáng mừng của nhà máy.

              Chúng ta thấy xét về mặt kết quả thì công ty có được những thành công đáng kể.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm vừa qua. Chỉ  tiêu lợi nhuận trên doanh thu qua các năm nhu vậy là khá cao, bình thường các chỉ tiêu này chỉ cần đạt được 10% là khá tốt.Nhưng của nhà máy trừ năm  2003 đạt 8% còn các năm sau đó  đều đạt trên 10%. Chỉ số này thể hiện trong một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Mặt khác chúng ta thấy hiệu quả sử dụng đồng vốn của nhà máy cũng khá cao đạt trên 100%.Điều này cho thấy hiệu quả đồng vốn chủ sở hữu.Nhưng hiệu quả của đồng vốn đi vay là khá thấp, nhưng không phải là tồi tệ đối với nhà máy. Từ bảng số liệu trên ta thấy đồng vốn chủ sở hữu tập chung đầu tư nâng cao công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh của nhà máy. Đặc  biệt trong năm 2006 giá trị đàu tw là tăng cao nhất để chuẩn bị cho một thời kì cạnh tranh mới của doanh nghiệp.

 

Tình hình thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty

 

Trong nền kinh tế thị trường, với xu hướng tự do hoá thương mại, Nhà nước dần xoá bỏ hàng rào thuế quan trong hoạt động thương mại nhằm tạo ra bước ngoặt lớn trong công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước nói chung và của công ty MBV nói riêng. Công ty phải tự chịu trách nhiệm về hoạt động tiêu thụ sản phẩm của mình, việc tiêu thụ được sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của công ty. Do đó công tác tiêu thụ sản phẩm phải được quan tâm nghiên cứu và triển khai một cách đồng bộ tiêu thụ hết sản phẩm sản xuất ra và có lãi.

Hiện nay công ty tổ chức bán hàng thông qua 4 trung tâm: Star Motor, Haxaco (Thành phố Hồ Chí Minh), Láng Hạ, Giảng Võ (Thành phố Hà Nội) và 14 đại lý trên cả nước, ở các trung tâm có các Giám đốc trung tâm phụ trách, sẵn sàng ký kết các hợp đồng mua bán, cung cấp số lượng lớn, chất lượng xe đảm bảo, đồng thời công ty áp dụng nhiều chính sách thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm.

Do đặc điểm sản phẩm của công ty là sản phẩm ô tô có giá trị lớn, giá trị sử dụng cao cho nên sản phẩm bán ra chủ yếu cho các đơn vị có nguồn ngân sách cấp, các công ty du lịch, các công ty kinh doanh có tầm cỡ lớn tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng. Đối với MBV thì thị trường Thành phố Hồ Chí Minh và thị trường Hà Nội là hai thị trường lớn, vì đây là hai khu vực có số lớn các cơ sở kinh doanh, cơ quan lãnh đạo cao cấp của Nhà nước có sức mua lượng lớn ô tô.

Thị trường Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai thành phố lớn có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối tốt. Số dân cư có thu nhập cao và giàu có, số này chiếm phần lớn khả năng thanh toán cũng như khả năng tiêu dùng ô tô có tỷ lệ cao hơn so với khu vực khác. Cụ thể hai thị trường này đã tiêu thụ khoảng 62% số lượng xe bán ra trong năm 2001 với số xe là 4.592 chiếc.

Như vậy, từ tình hình tiêu thụ trên vùng thị trường mà MBV đã chiếm lĩnh cho thấy từ năm 2000 đến năm 2002 số lượng xe bán ra của công ty tăng lên mặc dù tỷ trọng tiêu thụ ở Hà Nội và thị trường Thành phố Hồ Chí Minh năm 2001 có giảm so với năm 2000 nhưng vùng thị trường khác lại tăng 33% năm 2000 lên 38% năm 2001. Lượng xe được tiêu thụ tại vùng thị trường khác tăng lên, đây là dấu hiệu đáng mừng khẳng định được hướng phát triển của thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty là phát triển thị trường mới vào các vùng ở miền Trung, vùng phía Nam là đúng đắn.

Mặc dù công ty đã cố gắng đầu tư để mở rộng thị trường tiêu thụ, tốc độ tiêu thụ mấy năm gần đây tăng nhanh song vấn đề chiếm lĩnh thị trường, giành thị phần rất khó khăn đặc biệt, bởi ngoài MBV còn có 13 liên doanh ô tô được cấp giấy phép tung sản phẩm của mình ra thị trường.

Bên cạnh đó, công ty còn phải đối mặt với một lượng lớn xe ô tô nhập khẩu từ các hãng nổi tiếng trên thế giới, các xe cũ đã qua sử dụng.

Tính riêng năm 2000 cả nước nhập khẩu 26000 ô tô các loại (kể cả nhập khẩu bộ linh kiện, xe nguyên chiếc và xe đã qua sử dụng).

Đây thực sự là vấn đề khó khăn cho công ty cũng như cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Song số lượng tiêu thụ sản phẩm của công ty vẫn tăng là vì:

Thứ nhất, sản phẩm của công ty được thị trường chấp nhận, chiếm được lòng tin của khách hàng về chất lượng, giá cả, và chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, nhãn mác. Xe có khả năng cạnh tranh trực tiếp với ô tô nhập khẩu đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng trong nước.

Thứ hai, nhu cầu về ô tô đối với thị trường trong nước tăng mạnh do:

_ Luật Doanh nghiệp ra đời đã “mở cửa” thị trường ô tô Việt Nam. Những quy định mới đã thúc đẩy nhiều doanh nghiệp mới ra đời kéo theo nhu cầu mua sắm ô tô tăng.

_ Bộ Giao thông vận tải ban hành Quyết định 890, quy định tiêu chuẩn chất lượng xe chở khách liên tỉnh, nếu không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật quy định các chủ phương tiện buộc phải thay thế, mới được phép lưu hành. Thời hạn của quyết định được gia hạn tới ngày 01/7/2001.

_ Nhu cầu ô tô chuyên dụng các loại (xe cầu thang thuỷ lực, ben, ép rác hút hầm cầu) tăng mạnh.

Đặc điểm thị trường kinh doanh của nhà máy cơ khí công trình

Đặc điểm về thị trường kinh doanh của Nhà máy

          Trong quá trình đổi mới, nền  kinh tế Việt nam đã đạt rất nhiều  thành tựu có ý nghĩa . Tỷ lệ tăng trưởng  kinh tế cao và ổn định qua nhiều năm, thu hút được nhiều các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt nam, hoạy động xuất nhập khẩu cũng tăng lên đáng kể,các thành phần kinh tế cũng được khuyến khích phát triển, giá cả ổn định,tỉ lệ lạm phát thấp,cho phép động viên các bộ phận kinh tế tư nhân hoạt động trên nhiều lĩnh vực,mở rộng các hoạt động thương mại và đầu tư,điều chỉnh và quản lí được tỉ giá hối đoái,ổn định giá trị tiền tệ,giảm đến mức tối thiểu các ảnh hưởng không tốt của cuộc khủng hoảng tài chính Châu á,áp dụng được các chính sách tài chính ngân hàng rất linh hoạt và hiệu quả.

          Nền kinh tế cảu một nước là nhân tố  có tác động rất lớn cho sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô. Kinh tế phải đạt được đến điểm nào đó thì nhu cầu tiêu dùng ô tô mới có thể thành hiện thực. Thực trạng tại Viêt nam là nhu cầu đi lại bằng ô tô và chuyên chở bằng ô tô là rất cao  nhưng nhu cầu đó lại là nhu cầu không có khả năng thanh toán, nhưng đây cũng là một thị trường tiềm  năng cho rất nhiều các doanh nghiệp  tại Việt nam. Hoặc khi có khả năng thanh toán thì điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất lại chưa cho phép họ  làm chủ một chiếc xe đi lại hay vận chuyển.  Tuy nhiên đi cùng với cơ hội lớn như vậy là những thách thức không nhỏ về cạnh tranh. Hàng loạt các công ty sản xuất, lắp giáp ô tô thuộc  doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp liên doanh và khi Việt Nam ra nhập các tổ chức quốc tế như AFTA, WTO. Khi đó các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài sẽ tham gia vào thị trường Việt Nam thì tình hình cạnh tranh càng gay gắt hơn. Do đó, doanh nghiệp nào có lợi thế cạnh tranh lớn thì có thể thu được những kết qủa lớn tại thị trường Việt Nam. Theo thống kê, Việt Nam có hơn chục doanh nghiệp liên doanh ô tô và trên 160 doanh nghiệp tham gia sản xuất, lắp giáp, sửa chữa và chế tạo phụ tùng ô tô. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nhà máy nào đầu tư hoàn chỉnh, máy móc và phụ tùng mà vẫn phải nhập khẩu.

          Hiện nay, công suất trung bình của hơn chục doanh nghiệp liên doanh sản xuất, lắp ráp ô tô du lịch, xe tải nhẹ…đạt trên chục nghìn xe một năm, nhưng công suất này vẫn còn thấp. Tính chung trong cả nước, sản lượng ô tô các loại được sản xuất và lắp giáp trong nước năm 2004 khoảng 70.000 chiếc. Trong khi đó, lượng xe nhập khẩu cũng vào khoảng 40.000 chiếc. Điều đáng nói là số ô tô nhập khẩu nguyên chiếc vào Việt Nam có tới 90% là xe qua sử dụng; 70% là xe tải nhẹ, xe khách. Điều này dẫn đến sản xuất và lắp ráp của các doanh nghiệp trong nước bị cạnh tranh gay gắt. Hiện tại thì số lượng xe ô tô quá hạn sử dụng cần phải thay thế là rất lớn. Thị trường ô tô trong nước mấy tháng qua rất sôi động, nhất là các loại ô tô tải và xe khách sau khi có chủ chương hạn chế và cấm lưu hành đối với xe thô sơ, công nông, xe quá đát, thì lượng xe tải, xe khách được lắp giáp tăng nhanh. Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ xe tải nhẹ đang tăng nhanh trên phạm vi cả nước, ước khoảng 3000 chiếc /tháng, 150% đến 200% so với trước đây. Theo bộ công nghiệp nhu cầu tiêu thụ xe tải sẽ còn tiếp tục nóng và sẽ tăng lên 60.000 chiếc vào năm  2008. Mà mặt hàng xe tải nhẹ lại là một nguồn thu lớn của nhà máy.

          Để có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ sản phẩm ô tô lớn của thị trường Việt Nam, các doanh gnhiệp manh dạn đầu tư nâng cao tỉ lệ nội địa hoá vì như vậy sẽ được nhà nước khuyến khích tạo nhiều ưu đãi, như vậy thì sẽ có nhiều lợi thế so với đối thủ khác. Hiện nay,hoạt động của các doanh nghiệp chỉ đơn thuần là lắp giáp từ linh kiện CKD1, CKD2, tỉ lệ nội địa hoá thấp, chính vì vậy doanh số và lợi nhuận của nhà máy vẫn còn ở mức khiêm tốn

 

Nhân sự của công ty ô tô MBV

Nhân sự của công ty ô tô MBV

Bản thân ngành công nghiệp ô tô là một ngành đòi hỏi có kỹ thuật cao, chính xác. Đòi hỏi nhân viên của công ty phải có trình độ văn hoá, nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật, sức khoẻ tốt, kỷ luật và tác phong công nghiệp.

Công ty chú trọng việc tuyển lựa những cán bộ có khả năng đáp ứng được nhiệm vụ của công ty. Xây dựng một đội ngũ nhân sự đáp ứng được nhu cầu của sản xuất kinh doanh ngày càng hoàn thiện về kiến thức chuyên môn cũng như trình độ thương mại, trình độ ngoại ngữ. Hiện nay tổng số cán bộ, công nhân của MBV có 565 người.

Về cơ bản, MBV đã tổ chức được một bộ máy quản lý và hoạt động phù hợp với một công ty chuyên lắp ráp và tiêu thụ ô tô. Nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ và năng lực, MBV đã tạo được sức mạnh nội lực vững chắc, làm tiền đề cho sự phát triển của công ty.

Ô tô Toyota và tầm nhìn chiến lược

Toyota luôn hướng tới việc đáp ứng nhu cầu của từng đất nước và khu vực. Theo đó, chiến dịch sản phẩn cơ bản từ 2000 đến nay của Toyota là cung cấp mọi loại xe cho tất cả các nước, tất cả các khu vực. Tính đến năm 2009 Toyota đã hình thành nên một mạng lưới toàn cầu với 11 trung tâm nghiên cứu phát triển, 75 trung tâm sản xuất tại Nhật Bản và nước ngoài; mạng lưới bán hàng đã có mặt tại hơn 170 nước và vùng miền. Tuy nhiên, giữa những điều kiện thị trường ô tô khắc nghiệt như ngày nay, việc mở rộng theo cách thức này trở nên khó khăn hơn trong khi Toyota vẫn phải thực hiện vai trò của mình như một nhà sản xuất ô tô góp phần vào một xã hội phong phú, tăng trưởng kinh tế và tương lai môi trường của trái đất. Vì vậy, trong thời gian tới Toyota phải xác định nơi nó muốn cạnh tranh và những vùng cần có những bước đi cẩn thận.

Hiện nay, Toyota đã xây dựng chiến lược riêng dành cho mỗi mảng thị trường lớn trên thế giới: với các nước đang phát triển (đặc biệt là Trung Quốc) cạnh tranh bằng chiến lược giá, thị trường nội địa tập trung vào chất lượng sản phẩm, thị trường Bắc Mỹ phát triển theo hướng tự cung tự cấp, thị trường Châu Âu sử dụng lợi thế của dòng xe nhiên liệu sạch.

Đánh giá:

Với phương thức sản xuất hình thành trong suốt quá trình hoạt động lâu dài, Toyota sở hữu một giá trị nội tại bền vững. Văn hóa công ty cũng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên giá trị công ty. Tuy nhiên trong những năm gần đây sự phát triển quá nhanh chóng của công ty, mở rộng quy mô với tốc độ quá lớn khiến công ty phải đối mặt với những vấn đề về chất lượng. Hiện nay, sau một loạt các vụ thu hồi xe, Toyota đã thay đổi chiến lược trung hạn của mình từ tập trung thống lĩnh thị trường sang nâng cao chất lượng sản phẩm. Nâng cao niềm tin chất lượng sản phẩm, khôi phục danh dự của thương hiệu sẽ là nhiệm vụ quan trọng nhất của Toyota trong năm 2010. Nếu thực hiện tốt nhiệm vụ này, Toyota có cơ hội phát triển hơn nữa và thu lợi nhuận khổng lồ từ lợi thế người dẫn đầu.

 

Quá trình hình thành và phát triển của xí nghiệp ô tô Toyota Đà Nẵng

Lịch sử hình thành và phát triển của Toyota Đà nẵng đã trải qua những bước phát triển như sau: tiền thân của xí nghiệp Toyota Đà nẵng là xí nghiệp 387 đây là một đơn vị chuyên sửa chữa ô tô Quân sự trực thuộc Quân khu 5 và một số đơn vị quốc phòng đóng trên khu vực miền trung.

        Như đã biết, trong những năm 1993 xí nghiệp 387 là một phân xưởng ô tô hợp tác với Toyota Motor Corp dưới hình thức đảm nhận nhiệm vụ bảo hành các sản phẩm Toyota ở khu vực Miền Trung. Và do một số tính chất trong công việc hợp tác kinh doanh giữa hai bên cho nên xí nghiệp lúc này được tổ chức một cách riêng biệt và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Giám Đốc Xí nghiệp 387.

        Và dưới sự đồng ý của Bộ Quốc Phòng, Quân khu 5 thì lúc này xí nghiệp đặt quan hệ với công ty TOYOTA TSUSKO CORP tại Hà Nội: đây là một công ty thương mại của tập đoàn TOYOTA MOTOR CORP, vào ngày 15 tháng 7 năm 1993 để thành lập nên một cơ sở dịch vụ sửa chữa ô tô trên cơ sở phân xưởng hợp tác cũ. Tên gọi của cơ sở dịch vụ này là DCSS (tức là: Da nang Car Service Station).

        Đến tháng 8 năm 1994 thì DCSS đã có một bước quan trọng là được tập đoàn TOYOTA MOTOR CORP chính thức uỷ quyền bản hành sản phẩm TOYOTA DCSS và được sự trợ giúp chính tập đoàn như: Họ đào tạo nhân viên cho DCSS, tài trợ trang thiết bị chuyên dùng để kiểm tra kỹ thuật ô tô với trị giá 50.000 USD. Lúc này tổng trị giá tài sản của DCSS là 600 triệu đồng, doanh thu là 277 triệu đồng và đến năm 1996 thì tổng tài sản của họ lên đến 1,4 tỷ đồng, doanh thu đạt được là 490 triệu đồng.

        Và đến ngày 1 tháng 5 năm 1997 thì công ty TOYOTA Việt Nam (TMC) đã công nhận DCSS là trạm dịch vụ được uỷ quyền của Toyota sẽ gồm ba chức năng: thứ nhất là cung cấp xe mới, thứ hai là thực hiện dịch vụ chất lượng cao và cuối cùng là cung cấp các phụ tùng chính hiệu của Toyota. Trong sự phát triển không ngừng của nền kinh tế trong nước thì đến ngày 17 tháng 10 năm 2000 dựa trên cơ sở của DCSS, Bộ tư lệnh Quân khu 5 đã quyết định số 228/QĐ – QK về việc thành lập xí nghiệp Toyota Đà nẵng thuộc công ty Phú Tài với tổ chức biên chế của công ty bao gồm 20 nhân viên.

        Đến ngày 20 tháng 12 năm 2000 xí nghiệp TOYOTA Đà nẵng chính thức ra mắt và khai trương đi vào hoạt động, với cơ sở vật chất được đầu tư hiện đại và hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập trên cơ sở chuyển toàn bộ con người và vật chất của trạm bảo hành , đầu tư thêm nhiều cơ sở vật chất mới.

        Ngày 28 tháng 5 năm 2001, công ty Toyota Việt Nam công nhận xí nghiệp Toyota Đà nẵng là đại lý uỷ quyền với ba chức năng: sales, service, Genuine Parts – Bán xe mới, dịch vụ chất lượng và cung cấp phụ tùng tại khu vực Miền Trung chính hiệu TOYOTA của tập đoàn TOYOTA tại khu vực Miền Trung.

 

Sự cạnh tranh của nhãn hàng ô tô

 

Có thể thấy, các sản phẩm xe ô tô chính của Toyota là xe hơi, xe 7 chỗ, xe chuyên dụng.Trên thực tế, không có nhiều sản phẩm thay thế nào được coi là mối đe dọa nghiêm trọng của ô tô bởi tính tiện dụng của chúng. Hiện có một số sản phẩm thay thế cơ bản cho phương tiện giao thông này như: xe máy, xe đạp, tàu điện ngầm, tàu hỏa, máy bay…

Mối đe dọa của các sản phẩm thay thế này có thể phụ thuộc vào vị trí địa lý của người tiêu dùng. Ví dụ: ở một số thành phố như New York hoặc Chicago, tàu điện ngầm lại là phương tiện giao thông thuận tiện hơn cả. Còn ở những vùng, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, đường còn hẹp và khó đi, chưa có khu vực đậu xe an toàn thì sản phẩm thay thế tốt nhất của ô tô có thể là xe đạp hoặc xe máy. Nhằm mở rộng thị trường, Toyota đã cho ra đời một loạt các dòng xe với nhiều tính năng khác nhau, đáp ứng được phần lớn nhu cầu khách hàng (về giá cả cũng như các loại xe thích hợp với từng kiểu địa hình). Trên thực tế, ô tô vẫn được coi là một phương tiện giao thông cực kỳ tiện lợi và phổ biến bởi tính ưu việt mà chúng mang lại cho người tiêu dùng, chẳng hạn như: ô tô có thể cho phép chở được số lượng người nhiều hơn xe máy hoặc xe đạp; tàu điện ngầm sẽ khiến người tiêu dùng bị phụ thuộc về thời gian và địa điểm trong khi sử dụng ô tô thì sẽ giúp họ chủ động hơn… Do đó thị trường xe của Toyota ngày càng được mở rộng.

Một mối đe dọa lớn có thể kể đến cho các dòng ô tô hiện nay, cụ thể là các dòng ô tô của Toyota, đó là ô tô cũ đã qua sử dụng. Với mức giá thấp hơn giá xe ô tô mới rất nhiều, (giá xe Toyota mới nằm trong khoảng từ 15,000 – 66,000 USD) ô tô cũ đã qua sử dụng có thể trở thành lựa chọn của nhiều khách hàng có thu nhập thấp và trung bình. Một khi mà tính năng của dòng ô tô cũ đã qua sử dụng không có điểm gì khác biệt quá lớn với dòng ô tô mới, thì đây có thể được coi là một sản phẩm thay thế tiềm năng, một mối đe dọa lớn đối với ngành sản xuất ô tô nói chung và đối với công ty Toyota nói riêng. Bởi sự sẵn sàng chuyển đổi của khách hàng sang sử dụng dòng ô tô cũ đã qua sử dụng sẽ tạo nên sức ép giảm giá cho các hãng sản xuất ô tô và điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và doanh thu của các hãng này.Tuy nhiên, nếu xét về thời hạn sử dụng còn lại của sản phẩm thì việc tiếp tục tiêu dùng ô tô cũ, không ảnh hưởng nhiều lắm tới doanh số của các hãng sản xuất ô tô. Bởi vậy, mối đe dọa của các sản phẩm thay thế trong ngành này có thể coi là chưa đến mức nghiêm trọng.

Công tác điều tra nghiên cứu thị trường của công ty ô tô MBV

 

Tình hình tổ chức nghiên cứu, xác định nhu cầu thị trường thường được thực hiện vào giai đoạn đầu khi chuẩn bị cho ra thị trường một sản phẩm mới và tiến hành thường xuyên liên tục do phòng Marketing của công ty đảm nhận, các chiến dịch điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường được phòng Marketing triển khai vào đầu năm, đầu quý để kịp thời đưa ra phương án sản xuất và tiêu thụ. Khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch, phòng Marketing thường sử dụng các phương pháp điều tra nghiên cứu thị trường sau đây:

Phương pháp nghiên cứu tại bàn làm việc. Công ty thường sử dụng phương pháp này để điều tra nhu cầu của các đơn vị sử dụng xe ô tô với khối lượng lớn. Đầu kỳ kế hoạch sản xuất phòng kinh doanh liên hệ với các khách hàng có nhu cầu tiêu thụ xe với khối lượng lớn và thường xuyên nhằm điều tra nhu cầu người cần dùng sản phẩm của công ty mình sản xuất ra trong thời gian tiếp theo. Từ việc nghiên cứu các tài liệu thu thập được, phòng Marketing rút ra kết luận sự tăng hay giảm số người có nhu cầu đi lại như đi du lịch, sự tăng lên của các cơ sở sản xuất kinh doanh trên toàn quốc có ảnh hưởng như thế nào đến nhu cầu sử dụng xe ô tô của các đối tượng trong năm tiếp theo. Năm tới các đối tượng sử dụng xe ô tô có hướng sử dụng loại xe gì? mẫu mã như thế nào? chất lượng ra sao? Dự đoán cho năm tới lượng xe ô tô của công ty tiêu thụ là bao nhiêu, để từ đó phòng kế hoạch có kế hoạch sản xuất.

Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Việc nghiên cứu thị trường được thực hiện thông qua 4 trung tâm và 14 đại lý của công ty. Các cuộc điều tra nhu cầu khách hàng, các hội nghị khách hàng, các cuộc phát phiếu trưng cầu ý kiến, qua các hội chợ triển lãm. Việc nghiên cứu theo phương pháp này tương đối tốn kém và công phu. Hàng năm công ty đã tổ chức những cuộc hội nghị khách hàng để tìm hiểu xem xe nào của công ty được khách hàng ưa chuộng? Trên cơ sở đó định hướng cho công tác sản xuất phục vụ cho nhu cầu của khách hàng sau khi đã nghiên cứu nhu cầu của thị trường. Căn cứ vào các thế mạnh và yếu của mình công ty xác định phần thị trường có khả năng chiếm lĩnh được bao nhiêu % thị phần? Số lượng xe bán được trên các thị trường đó sẽ là bao nhiêu? Từ đó phòng Marketing sẽ phối hợp cùng với các phòng ban khác lên kế hoạch tiêu thụ cho toàn công

ty.

Công tác điều tra nghiên cứu thị trường là cơ sở quan trọng trong việc lựa chọn thị trường trọng điểm thông qua việc phân đoạn thị trường đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường. Tránh tình trạng khi thị trường cần mình lại không có hay sản xuất ra hàng loạt không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Thực tế công ty đã gặp phải tình trạng này. Đó là, cuối năm 1996 sau khi xem xét đề nghị của các địa phương, căn cứ vào nghiên cứu vùng địa lý lãnh thổ Chính Phủ Việt Nam đã đồng ý cho 6 tỉnh được tách ra thành 12 tỉnh. Đây là một cơ hội rất tốt cho các liên doanh ô tô thực hiện việc cung cấp số lượng xe cho các tỉnh mới và cũ sau khi tách. Công ty MBV đã là một trong những liên doanh có số lượng xe bán nhiều cho các đối tượng trên. Đáng ra công ty phải đạt được số lượng xe bán nhiều hơn

nữa nhưng do phân tích đối tượng khách hàng chưa thấu đáo nên đã bỏ ngỏ thị trường một số loại xe điển hình là xe bán tải MB100. Đối tượng mua xe chủ yếu cho loại này là các công ty điện lực các tỉnh, bưu điện các tỉnh, kho bạc, ngân hàng các tỉnh… do số lượng xe này quá ít so với nhu cầu nên sau thời gian ngắn ra mắt trên thị trường xe này đã được tiêu thụ hết và sau đó do không thể nhập kịp linh kiện loại xe trên nên MBV đã bỏ thị trường, bỏ khách hàng cho các hãng xe khác nhập khẩu về như TOYOTA, NISSAN.

Cơ hội rất khó có thể lặp lại trong tương lai gần.

 

Thị trường ô tô ở Việt Nam trong những năm gần đây

1. Cung

Trong những năm gần đây, do mức sống của người Việt Nam ngày càng đi lên vì vậy nhu cầu về hàng hoá ngày càng tăng, không chỉ có các mặt hàng tiêu dùng tăng mà ngay cả đến các sản phẩm xa sỉ cũng tăng như sản phẩm của các hãng ô tô tăng đáng kể trong ba năm gần đây (2000 – 2002). Và để có được thị trường, các hãng ô tô đã cạnh tranh với nhau bằng cách hạ giá thành và luôn thay đổi mẫu mã đa dạng ra thị trường do đó lượng ô tô đưa ra thị trường nhanh chóng tăng lên, Tuy nhiên, việc sản xuất và lắp ráp ô tô của các hãng cũng còn phải phụ thuộc vào nhu cầu của

người tiêu dùng, giá cả đầu vào, các chính sách thuế quan, xuất nhập khẩu.

Hiện nay, thị trường ô tô ở Việt Nam có rất đa dạng các loại ô tô của các hãng như: Mercedes-Benz Việt Nam, Toyota, Ford Việt Nam, Isuzu, Misubishi, Daewoo, Daihatsu, BMW, Mazda, Mekong.

2. Cầu

Nhu cầu của người tiêu dung về sản phẩm của các hãng ô tô ngày càng tăng. Trong những năm gần đây, mức thu nhập của người dân tăng, vì vậy, họ đã có nhu cầu đối với mặt hàng xa sỉ như ô tô. Riêng đối với sản phẩm của Mercedes-Benz, số lượng ô tô bán ra tăng đáng kể trong ba năm gần đây (2000 – 2002). Năm 2000, MBV đã bán được 3,085 chiếc, chiếm 17% tổng số xe ô tô đã bán của hơn 13 hãng sản xuất ô tô. Năm 2001, MBV bán được 4,592 chiếc, chiếm 19% tổng số xe ô tô đã bán của hơn 13 hãng sản xuất ô tô. Năm 2002, MBV đã bán 7,143 chiếc, chiếm 20% tổng số xe đã bán của hơn 13 hãng sản xuất ô tô. Qua con số xe ô tô đã bán ngày càng tăng cho ta thấy mức sống của người dân ngày càng tăng và nhu cầu

sử dụng xe ô tô cũng ngày càng tăng.